Thị trường vốn Việt Nam: Thách thức từ hội nhập
Thị trường vốn Việt Nam đang hội nhập sâu rộng trong khu vực khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) hình thành. Tuy nhiên, cấu trúc của thị trường chưa thực hoàn chỉnh khi hệ thống ngân hàng vẫn giữ vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, cần những chính sách phát triển theo chiều sâu, gia tăng vai trò dẫn vốn từ thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh |
So với các nước trong khu vực như Malaysia, Singapore, Thái lan, Philippines, thị trường vốn của Việt Nam (với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng) còn kém phát triển. Thị trường tín dụng vẫn giữ vai trò "đầu tàu trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Điều này khiến tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam luôn cao hơn khá nhiều so với phần lớn các nước trong AEC. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, những quốc gia có tỷ lệ tín dụng trên GDP thấp sẽ được hưởng nhiều lợi ích hơn trong quá trình hội nhập tài chính. Đối với những nước có tỷ lệ tăng tín dụng cao nhưng thiếu hệ thống giám sát thì có thể tác động tới tính ổn định vĩ mô.
Đối với thị trường chứng khoán (TTCK), mặc dù quy mô vốn hóa của TTCK Việt Nam tăng rất nhanh với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đến cuối tháng 5/2017 đã đạt 2.400 nghìn tỷ đồng, tương đương 53% GDP, nhưng vẫn chỉ được xếp hạng ở nhóm thị trường cận biên hoặc thị trường mới nổi (tùy theo tiêu chí) chứ chưa vào được thị trường phát triển. Điều này cũng là trở ngại cho việc thu hút dòng vốn đầu tư trung, dài hạn để cung ứng cho nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu (TTTP) của Việt Nam hiện còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực. Đến hết năm 2016, TTTP chiếm 22% GDP với tổng giá trị 44 tỷ USD. Theo nghiên cứu của GS - TS. Nguyễn Thị Cành và cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và tài chính - Trường Đại học Kinh tế Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh: Quy mô TTTP Việt Nam thấp nhất cả về giá trị tuyệt đối cũng như % GDP so với các nước trong khu vực. Đáng lưu ý, TTTP của chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, giá trị niêm yết của trái phiếu doanh nghiệp rất thấp.
Cùng với những tồn tại nêu trên, các chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng mức độ ổn định tài chính của thị trường vốn Việt Nam với các nước trong khu vực có nhiều điểm cần xem xét. Cụ thể, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản của các ngân hàng trong nước hiện ở mức trung bình, thuộc nhóm có quy mô thấp trong khu vực và mức độ rủi ro cao; tỷ lệ nợ xấu cao và có xu hướng tăng...
Từ thực tế trên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, AEC với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với thị trường vốn Việt Nam. Vì thế, chính sách được đưa ra cần chú trọng đến chất lượng phát triển tài chính hơn là phát triển theo chiều rộng để giảm biến động kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Cụ thể, bảo đảm sự lành mạnh, ổn định hệ thống ngân hàng; kiện toàn hệ thống giám sát tài chính; xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro sớm để giúp cho các nhà điều hành có căn cứ xử lý kịp thời các tình huống, hạn chế rủi ro phát sinh, cũng như ngăn ngừa khủng hoảng tài chính khi dòng vốn đảo chiều đột ngột.
GS-TS. Nguyễn Thị Cành cho rằng, khi gia nhập AEC và thực hiện các cam kết tự do hóa lưu chuyển dòng đầu tư và vốn trong thị trường vốn, Việt Nam sẽ chịu nhiều ảnh hưởng hơn từ các sàn chứng khoán Indonesia, Malaysia, Singapore. Do vậy, Chính phủ cần chú trọng đến việc phát triển thị trường phái sinh nhằm bổ sung thêm các công cụ phòng ngừa rủi ro cho thị trường.
Với một thị trường chung cho toàn khu vực ASEAN, việc nhận diện và giám sát rủi ro hệ thống tài chính là yêu cầu cần thiết, nhất là các nước mới phát triển thể chế tài chính thị trường như Việt Nam. |
Duy Minh - Theo Báo Công Thương Điện Tử