NGÀNH KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐỂ TIẾP NỐI THÀNH CÔNG

 

Ngày 8 tháng 10 năm 1955, Hội đồng Chính phủ họp quyết định thành lập Ủy ban Kế hoạch Quốc gia được xác định là ngày thành lập Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Ngược trở lại lịch sử, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập, ngày 31 tháng 12 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 78-SL thành lập Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết nhằm nghiên cứu, soạn thảo và trình Chính phủ một kế hoạch kiến thiết quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, xã hội và văn hóa. ủy ban gồm các ủy viên là tất cả các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có các Tiểu ban chuyên môn, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Chính phủ. Vì vậy, trong buổi lễ ngành Kế hoạch và Đầu tư đón nhận Huân chương Sao Vàng được tổ chức tại Hội trường Ba Đình lịch sử ngày 4 tháng 11 năm 2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định lấy ngày 31 tháng 12 năm 1945 là ngày truyền thống của ngành Kế hoạch và Đầu tư. Kể từ đây ngành Kế hoạch và Đầu tư coi ngày 31 tháng 12 hằng năm là ngày Lễ chính thức của mình.

Quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành Kế hoạch và Đầu tư thành phố gắn liền với sự phát triển của ngành kế hoạch cả nước và sự phát triển toàn diện của Thủ đô. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngành Kế hoạch và Đầu tư thành phố đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào những thành tựu phát triển của Thủ đô và đất nước.

Cùng với sự ra đời của Ủy ban Kế hoạch Quốc gia (cơ quan tiền thân của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì Ban Kế hoạch Thành phố Hà Nội cũng được thành lập ngày 8 tháng 10 năm 1955, đầu năm 1958 đổi tên thành Ủy ban Kế hoạch Thành phố Hà Nội.

Ngày 23 tháng 8 năm 1996, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 2743/QĐ-UB thành lập Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội trên cơ sở tổ chức và sắp xếp lại Ủy ban Kế hoạch cũ và nhiệm vụ đầu tư, hợp tác viện trợ kinh tế của Sở Kinh tế Đối ngoại chuyển sang.

Ngày 18 tháng 01 năm 2005, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 05/2005/QĐ-UB quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội.

Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc Hội về điều chỉnh địa giới hành chính của Thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, Thủ đô Hà Nội được mở rộng trên cơ sở hợp nhất Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (tỉnh Hòa Bình). Từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố được thành lập trên cơ sở hợp nhất Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây và Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố (cũ) tại Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 02/8/2008 của UBND Thành phố Hà Nội; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố được UBND Thành phố Hà Nội quy định tại Quyết định số 37/2008/QĐ-UBND ngày 17/10/2008.

Ngay từ ngày đầu thành lập, các thế hệ cán bộ ngành kế hoạch luôn quán triệt sâu sắc nhiệm vụ chính trị được giao, phấn đấu đáp ứng các yêu cầu của lãnh đạo Thành phố trong công tác tham mưu tổng hợp về xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đề xuất nhiều cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực phát triển Thủ đô nghìn năm văn hiến. Những mốc son của ngành Kế hoạch và Đầu tư Thủ đô gắn liền với những giai đoạn xây dựng và phát triển của Thành phố Hà Nội anh hùng.

 

1. Giai đoạn bước đầu xây dựng Thủ đô XHCN và đấu tranh thống nhất đất nước (1955 - 1975):

Từ những ngày đầu tiếp quản Thủ đô mới được giải phóng (1954), trong tình trạng cơ sở hạ tầng nhỏ bé, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, Ngành đã xây dựng các kế hoạch khôi phục kinh tế và cải tạo XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho chế độ CNXH còn non trẻ. Kết thúc kế hoạch 5 năm đầu tiên, kinh tế - xã hội Thủ đô có bước phát triển khá, hình thành nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng, thanh toán được nạn mù chữ, đời sống nhân dân được cải thiện hơn.

Thời kỳ 1966-1975, Hà Nội cũng như cả nước vừa là hậu phương, vừa là tiền phương của cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Với tinh thần: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, cán bộ công chứcngành kế hoạch đã nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và Thành phố, điều hành tập trung, đảm bảo cung cấp đều, đầy đủ lương thực thực phẩm cho nhân dân, đáp ứng kịp thời các yêu cầu cụ thể cho sản xuất và chiến đấu phục vụ hậu phương và tiền phương theo tình hình cách mạng, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Thủ đô và đấu tranh thống nhất đất nước.

2. Giai đoạn 10 năm xây dựng Thủ đô XHCN trong hòa bình và thống nhất đất nước (1976 - 1985):

Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thành phố thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980) và lần thứ 3 (1980-1985). Ngành Kế hoạch đã chủ động phối hợp với các Sở, Ban, Ngành chức năng tham mưu với các cấp lãnh đạo kịp thời khắc phục những hậu quả của chiến tranh, giải quyết các cân đối hiện vật, đảm bảo nhu cầu vật tư, thiết bị cơ bản của nền kinh tế; bảo đảm cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu; thực hiện phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân và cộng đồng; xây dựng và quản lý đô thị, từng bước giải quyết các nhu cầu dân sinh bức xúc về nước sạch, nhà ở, điện sinh hoạt; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự an toàn xã hội.

3. Giai đoạn đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (1986 - 2007):

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành Kế hoạch Thủ đô đã không ngừng đổi mới, tham mưu đề xuất nhiều cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ngành đã tập trung nghiên cứu Chiến lược phát triển kinh tế, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố và quy hoạch phát triển kinh tế quận, huyện, thị xã; thẩm định các quy hoạch ngành, xây dựng kế hoạch trung hạn và dài hạn của Thủ đô; coi trọng công tác dự báo kế hoạch và xây dựng cơ chế chính sách, gắn chặt kế hoạch kinh tế - xã hội với giải pháp về đầu tư xây dựng trên địa bàn; chủ động tham mưu huy động các nguồn lực và đề xuất cơ chế điều hành kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch góp phần thúc đẩy phát triển Thủ đô nhanh và toàn diện.

Từ năm 1986 đến năm 2007 bình quân tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Thủ đô tăng 9,9%/năm (trong đó, giai đoạn 1986-1990 tăng 4,53%, giai đoạn 1991-2000 tăng 11,61%/năm, giai đoạn 2001-2005 tăng 11,15%/năm, năm 2006 tăng 11,55%, năm 2007 tăng 12,08%); GDP đầu người năm 2007 gấp 4,4 lần so với năm 1990. Các mặt văn hoá, giáo dục có tiến bộ rõ nét, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang sạch đẹp và đổi mới, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.

4. Giai đoạn phát triển sau khi Hà Nội được mở rộng theo Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc Hội:

Năm 2008, Thủ đô Hà Nội được mở rộng theo Nghị quyết 15 của Quốc Hội, với tinh thần chủ động, sáng tạo, tập trung, chất lượng, hiệu quả, ngành Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị Trung ương và Thành phố hoàn thành tốt các nhiệm vụ trong tình hình mới. Kết quả cụ thể trên các mặt công tác như sau:

- Phối hợp các Bộ, Ngành, tham mưu UBND Thành phố xây dựng Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố đến năm 2020, tầm nhìn 2030; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và quy hoạch kinh tế - xã hội của 19 huyện, thị xã. Chủ trì rà soát các đồ án quy hoạch, các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố.

- Tổng hợp xây dựng và giao kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư XDCB đảm bảo kịp thời, chất lượng với tư duy không ngừng đổi mới. Chủ trì tổng hợp các báo cáo kinh tế - xã hội hàng tháng, quý, sáu tháng và cả năm, đề xuất kịp thời các giải pháp phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Thành phố. Tham mưu các cơ chế, chính sách xã hội hóa đầu tư, huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tổ chức thực hiện tốt chức năng đầu mối quản lý nhà nước về vốn vay viện trợ chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư của Thành phố; giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp (tính đến hết năm 2010 có khoảng 1.800 dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn với số vốn đăng ký 19,5 tỷ USD).

- Thực hiện tốt chức năng cơ quan đầu mối quản lý, đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng. Trong 5 năm 2006-2010, tổ chức thẩm định, trình duyệt và theo dõi, đôn đốc triển khai hàng nghìn dự án đầu tư, trong đó nhiều dự án trọng điểm quy mô lớn hàng nghìn tỷ đồng có vai trò quan trọng phát triển hạ tầng khu đô thị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự xã hội của Thủ đô.

- Tập trung tham mưu thực hiện các chương trình, công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội; các cơ chế đặc thù để triển khai nhanh thủ tục đảm bảo khởi công và hoàn thành các công trình lớn. Nhiều dự án lớn quan trọng đã hoàn thành và đưa vào sử dụng: Đại lộ Thăng Long, cầu Vĩnh Tuy, Thanh Trì, vành đai 3, đường Lê Văn Lương kéo dài, Bảo tàng Hà Nội,… Đầu tư và đưa vào sử dụng các khu nhà ở xã hội, đô thị mới hiện đại, các khu, cụm công nghiệp. Đô thị được chỉnh trang, công viên, vườn hoa được đầu tư, môi trường sông, hồ được cải tạo. Các hoạt động, chương trình và công trình kỷ niệm đã góp phần quan trọng vào thành công của Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, bồi đắp, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào của mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô, nhân dân cả nước về Thủ đô Anh hùng nghìn năm văn hiến và nâng cao vị thế của Thủ đô trên trường Quốc tế.

- Tích cực tham gia các Chương trình công tác của Thành uỷ, Quận, Huyện uỷ. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường trực Chương trình đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của kinh tế Thủ đô giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011- 2015 của Thành ủy. Chủ trì nghiên cứu xây dựng trình UBND Thành phố các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Pháp lệnh Thủ đô, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố. Chủ trì xây dựng Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh, Chương trình xúc tiến đầu tư của Thành phố, Quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì nghiên cứu hàng chục đề tài khoa học cấp Thành phố đạt hiệu quả, chủ động cung cấp thông tin, dự báo định hướng phát triển dài hạn, ngắn hạn làm căn cứ xây dựng kế hoạch phát triển của Thành phố.

- Thường trực theo dõi nội dung hợp tác giữa Hà Nội với các thành phố lớn Châu Á và các địa phương trong cả nước. Nhiều hoạt động hợp tác, hỗ trợ và phối hợp được triển khai đem lại hiệu quả thiết thực.

- Tham gia tích cực các hoạt động khác như: Chương trình mục tiêu phát triển công nghệ thông tin; triển khai cải cách hành chính, tất cả các thủ tục hành chính được tiến hành qua cơ chế một cửa. Hệ thống văn bản được chuẩn hoá và triển khai trên mạng nội bộ, góp phần tích cực vào việc xử lý nhanh, trực tiếp, đồng thời tiết kiệm được chi phí in ấn… Cơ bản đã rút ngắn thời gian và đơn giản hoá quy trình xử lý thủ tục hành chính, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các phòng, ban và cá nhân trong Sở.

Bước sang kế hoạch 5 năm 2011-2015, vị trí và trọng trách của Thủ đô Hà Nội đối với cả nước ngày càng quan trọng. Trong bối cảnh đó, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ngành kế hoạch và đầu tư Thủ đô cần phát huy cao độ hơn nữa tinh thần “Đoàn kết - Trí tuệ - Đổi mới”, xây dựng ngành kế hoạch và đầu tư ngày càng phát triển vững mạnh, tiếp tục đổi mới phù hợp yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới của Thủ đô và đất nước. Toàn thể cán bộ đảng viên, công chức, viên chức ngành Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội sẽ cần tập trung triển khai những nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là khẩn trương triển khai thực hiện tốt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2015.

Hai là tham mưu điều hành thực hiện kế hoạch theo hướng linh hoạt, chủ động, sáng tạo. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phù hợp yêu cầu thực tiễn, đáp ứng sự phát triển của từng giai đoạn, làm định hướng phát triển cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội và các thành phần kinh tế theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là chú trọng huy động và quản lý vốn đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo cân đối nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Thành phố. Tổ chức thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư, khai thác mọi tiềm năng và nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Bốn là tập trung cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng, đăng ký doanh nghiệp, … Đổi mới phong cách làm việc theo yêu cầu văn minh công sở của Thành phố; thực hiện chủ động theo phương châm: kịp thời – chính xác – đúng luật - hiệu quả.

Năm là thường xuyên củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ ngành Kế hoạch và Đầu tư từ Thành phố đến các quận, huyện, thị xã: kiện toàn các phòng ban và đội ngũ cán bộ trong Sở Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với các Sở, ngành, quận, huyện củng cố và kiện toàn các phòng Kế hoạch, các Ban quản lý dự án. Tiếp tục phát huy quan hệ hợp tác chặt chẽ với ngành Kế hoạch và Đầu tư của các địa phương trong cả nước.

 

Ngoài các nhiệm vụ chủ yếu trên, ngành Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ thường xuyên: đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá đầu tư, thực hiện kế hoạch; nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách huy động và phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô./.